CÁC VỊ DANH NHO ĐỜI TRẦN

CÁC VỊ DANH NHO ĐỜI TRẦN
Chu Văn An (1292–1370)
Nhà giáo – danh nho tiêu biểu, từng làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám (hiệu trưởng), trực tiếp dạy hoàng tử; mất năm 1370 được thờ tại Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Ông nổi tiếng với “Thất trảm sớ” dâng vua Trần Dụ Tông đòi trừ nịnh thần; không được chấp thuận, ông cáo quan về dạy học, trở thành biểu tượng khí tiết Nho gia.
Mạc Đĩnh Chi (1272–1346)
Trạng nguyên đời Anh Tông, văn tài lừng danh; nhiều giai thoại bắt nguồn từ bài “Ngọc tỉnh liên phú”. Ông hai lần đi sứ nhà Nguyên, ứng đối khéo léo, thể hiện khí phách trí thức Đại Việt.
Trương Hán Siêu (?-1354)
Danh nho – đại thần qua bốn đời vua, từng giữ các chức Hàn lâm học sĩ, Hành khiển…; là tác giả nhiều trước tác, tiêu biểu “Bạch Đằng giang phú”. Ông được truy tặng Thái phó vì công lao với triều đình.
Nguyễn Trung Ngạn (1289–1370)
Đại thần – học giả Nho học, đồng soạn “Hoàng triều đại điển” và tham gia biên định “Quốc triều hình luật” (1341) dưới thời Trần Dụ Tông, đánh dấu bước trưởng thành của pháp luật thời Trần.
Phạm Sư Mạnh (thế kỷ XIV)
Danh sĩ – tiến sĩ nổi bật cuối Trần, trước tác Hiệp Thạch tập (nay thất lạc, còn lại 33 bài rải rác trong các tuyển tập). Được Phan Huy Chú khen là thơ “hào hùng, thanh thoát”.
Lê Văn Hưu (1230–1322)
Nhà sử học đầu tiên của Việt Nam, tác giả bộ Đại Việt sử ký (30 quyển, hoàn thành 1272) – bộ quốc sử nền tảng để các đời sau (như Ngô Sĩ Liên) biên soạn tiếp. Đồng thời là Bảng nhãn trẻ tuổi, từng giữ chức ở Quốc sử viện.
Như vậy, chúng ta thấy tầng lớp danh nho đời Trần vừa giữ đạo lý – giáo hóa (Chu Văn An), vừa lập ngôn – lập pháp (Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu), vừa đối ngoại bang giao (Mạc Đĩnh Chi), trước thuật sử học (Lê Văn Hưu). Họ góp phần gây dựng nền thể chế – pháp luật – giáo dục và khí chất văn hiến của triều Trần.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *